11 cơ sở cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng các đại học Châu Á năm 2021 của tổ chức QS (Bảng xếp hạng QS Asia University Rankings 2021) bao gồm: ĐHQG TP. HCM, ĐHQG Hà Nội, trường ĐH Tôn Đức Thắng, trường ĐH Bách khoa Hà Nội, trường ĐH Duy Tân, ĐH Huế, ĐH Đà Nẵng, ĐH Cần Thơ, trường ĐH Sư phạm Hà Nội, trường ĐH Công nghiệp TP. HCM, trường ĐH Kinh tế TP. HCM.
Đáng chú ý, 3 cơ sở lần đầu có mặt trong bảng xếp hạng này là trường ĐH Sư phạm Hà Nội, trường ĐH Công nghiệp TP. HCM, trường ĐH Kinh tế TP. HCM. Như vậy, với 237 đại học và trường đại học của Việt Nam, đến nay, có 4,64% cơ sở giáo dục đại học trong cả nước có tên trong bảng xếp hạng khu vực của Tổ chức này.
Bên cạnh một số đại học và trường đại học tụt hạng thì có nhiều đơn vị đã tăng hạng. Chẳng hạn, tường ĐH Tôn Đức Thắng (TDTU) xếp hạng 163 (tăng 44 hạng so với năm 2020 là: 207), trường ĐH Duy Tân xếp hạng 351 - 400 (tăng hạng với với năm 2020 là 451 - 500 ), ĐH Huế và ĐH Đà Nẵng cùng thuộc nhóm 401-450 (ĐH Huế tăng hạng so với năm 2020 là 451 - 500).
Trường ĐH Sư phạm Hà Nội có hạng 551 - 600, trường ĐH công nghiệp TP. HCM và trường ĐH kinh tế TP. HCM đồng hạng 601+. Riêng trường ĐH Tôn Đức Thắng, chỉ trong hai năm đã tăng 128 hạng, mức tăng hạng nhiều nhất ở Việt Nam và cũng thuộc nhóm các trường có mức tăng hạng ấn tượng nhất của Châu Á.
Với vị trí xếp hạng thứ 163 trong Bảng xếp hạng 2021, trường ĐH Tôn Đức Thắng chỉ xếp sau vài hạng so nhiều đại học danh tiếng và lâu đời trong khu vực Châu Á như: Chungnam National University (Hàn Quốc), National Chung Cheng University (Đài Loan) và vượt các trường Yokohama National University (Nhật Bản), Prince of Songkla University (Thái Lan), Nagasaki University (Nhật Bản),…
QS Châu Á xếp hạng các đại học dựa trên 11 tiêu chí với trọng số khác nhau, gồm Danh tiếng về học thuật (30%); Danh tiếng nhà tuyển dụng (20%); Tỷ lệ giảng viên/sinh viên (10%); Tỷ lệ đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ (5%); Tỷ số bài báo xuất bản trên giảng viên (5%); Chỉ số trích dẫn trên bài báo (10%); Mạng lưới nghiên cứu quốc tế (10%); Giảng viên quốc tế (2,5%); Sinh viên quốc tế (2,5%); Sinh viên trao đổi trong nước (2,5%); Sinh viên học trao đổi nước ngoài (2,5%).