Năm sinh viên chuyên ngành Digital Marketing gồm Lệ Thu, Thúy Thanh, Thúy Hạnh, Tuệ Nhi và Việt Hiếu đều có tuổi thơ gắn với những làng muối ven biển, từ Đồ Sơn (Hải Phòng) đến Bạch Long, Văn Lý (Nam Định, nay là Ninh Bình) hay Diêm Điền (Thái Bình, nay là Hưng Yên). Hình ảnh người diêm dân "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" trên những ruộng muối trắng xóa đã trở thành miền ký ức sâu đậm, kết nối những người trẻ chung khát khao nâng tầm giá trị hạt muối quê hương.
Thúy Thanh chia sẻ: "Trong một chuyến đi thực tế khảo sát tại cánh đồng muối Bạch Long, chúng mình không khỏi xúc động trước câu chuyện của các bác diêm dân. Làm lụng vất vả cả tháng trời nhưng tiền bán muối thu về nhiều khi chỉ bằng vài ngày công của người lao động khác". Chính sự chênh lệch chua xót giữa công sức và thu nhập ấy đã thôi thúc nhóm đi tìm lời giải cho bài toán giá trị bị bỏ quên của hạt muối Việt.
Thực tế, Việt Nam có nhiều vùng muối giàu khoáng chất tự nhiên, trong đó Bạch Long được đánh giá là một trong những khu vực có nguồn muối sạch và ổn định. Tuy nhiên, muối chủ yếu được bán thô nên giá thấp. Điều này khiến các làng nghề gặp khó trong việc duy trì sức hấp dẫn đối với lao động trẻ. Nhận thấy khoảng trống ấy, nhóm sinh viên FPT mong muốn tìm một cách thức chế biến sâu để nâng giá trị nguyên liệu bản địa, đồng thời tạo ra sản phẩm phù hợp với xu hướng chăm sóc sức khỏe và tinh thần đang gia tăng tại Việt Nam.
"Cơ duyên đến khi chúng mình biết tới kỹ thuật muối tre của Hàn Quốc, một phương pháp có lịch sử lâu đời, sử dụng ống tre để nung muối ở nhiệt độ cao nhằm tinh lọc tạp chất và tăng hàm lượng khoáng chất hoạt tính. Suốt nhiều tháng sau đó, nhóm dồn công sức nghiên cứu, thử nghiệm và điều chỉnh để phù hợp với đặc tính muối Việt Nam. Từ lựa chọn loại tre đến mức nhiệt, thời gian nung hay độ ẩm đều phải kiểm tra liên tục. Tre cháy đen, muối vón cục, ống nổ vì tăng nhiệt quá nhanh là những sự cố thường xuyên trong giai đoạn đầu", trưởng nhóm Nguyễn Lệ Thu kể lại. Thất bại nhiều đến mức nhóm phải dừng hoàn toàn quy trình để xem lại từng bước. Nhưng chính nhờ những thử nghiệm lặp lại ấy, họ hiểu rõ hơn cách thức vật liệu tự nhiên phản ứng trong điều kiện nhiệt và tìm được công thức ổn định.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm nhận được nhiều sự hỗ trợ chuyên môn của các bác sĩ y học cổ truyền. Sự kết hợp giữa muối tre và các thảo dược Việt Nam giúp định hình sản phẩm theo hướng chăm sóc cơ thể và tinh thần một cách tự nhiên, an toàn. Thay vì đi theo lối mòn của các sản phẩm muối ăn thông thường, nhóm phát triển các dòng sản phẩm gồm: Muối tre ngâm chân thảo dược, muối tre xông và tắm, muối tre tẩy tế bào chết và viên muối nén ứng dụng trong y học cổ truyền.
Nhóm đã thiết lập hợp tác bước đầu với một số hộ sản xuất muối tại các cánh đồng muối như Bạch Long và Văn Lý; đặt ra tiêu chuẩn thu mua rõ ràng, giúp diêm dân cải thiện khâu sơ chế và đảm bảo sạch, không lẫn tạp chất. Việc có đầu ra ổn định với mức giá cao hơn muối bán thô về lâu dài sẽ tạo động lực để người dân duy trì nghề, đồng thời cho thấy triển vọng của mô hình kinh tế dựa trên tài nguyên bản địa kết hợp công nghệ mới.
Nhóm sinh viên kỳ vọng khi các sản phẩm hoàn thiện và được thương mại hóa rộng rãi, diêm dân không chỉ được đảm bảo đầu ra mà còn có thể tăng thu nhập nhờ đóng góp vào chuỗi giá trị mới. Điều này mở ra tiềm năng để muối tre trở thành một nguyên liệu quan trọng trong nhóm sản phẩm chăm sóc cá nhân. Với thị trường wellness (Chăm sóc sức khỏe toàn diện cả thể chất và tinh thần) ngày càng phát triển tại Việt Nam, nhu cầu về các sản phẩm tự nhiên, có nguồn gốc minh bạch và phù hợp văn hóa bản địa cũng tăng nhanh. Xa hơn, dự án góp phần bảo tồn làng nghề muối truyền thống, giữ lại những tri thức lâu đời về nghề muối trong đời sống cộng đồng ven biển.
Ảnh: NVCC