Theo GS.TS Nguyễn Thị Lan, năm 2020, chúng ta phải gánh chịu những tổn thất nặng nề chưa từng có do dịch bệnh, thiên tai khó lường, do các yếu tố bất lợi và các xung đột địa-chính trị gây ra.
Nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, sáng tạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, Việt Nam đã vượt quá khó khăn, đạt được những kết quả quan trọng.
Báo cáo của Chính phủ đã đề cập đến nhiều nhiệm vụ và giải pháp có tính khả thi cao để vừa sẵn sàng, chủ động ứng phó, giảm thiểu những thiệt hại do COVID-19 và thiên tai bão lũ gây ra và vừa để phục hồi, phát triển kinh tế trong năm 2021 và các năm tiếp theo.
"Trong nhiệm vụ, giải pháp thứ 5 của báo cáo, Chính phủ đã đặc biệt chú trọng đến đội ngũ nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, coi khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là nền tảng cho sự phát triển của đất nước. Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm của Chính phủ và cho rằng đây là một giải pháp đúng đắn, mang tính đột phá, tạo động lực then chốt để phát triển triển nền kinh tế tri thức nhanh và bền vững, cho cả hiện tại và tương lai" Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam nói.
Liên quan đến vấn đề khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, GS.TS Nguyễn Thị Lan cũng đề xuất với Quốc hội một số kiến nghị về chính sách thúc đẩy sự phát triển đổi mới sáng tạo trong trường đại học, đặc biệt là chú trọng phát triển mô hình doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ (Spin off), một mô hình mà thế giới coi là hiệu quả thiết thực để phát triển và thương mại hóa các công nghệ được nghiên cứu thành công từ các trường đại học.
Theo Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, hiện nay, Việt Nam có 237 trường đại học, với 16.500 tiến sỹ , 574 giáo sư, 4.113 phó giáo sư; hàng năm đào tạo khoảng 1.500 tiến sĩ, hơn 36.000 thạc sĩ và gần 1,5 triệu sinh viên đại học.
Các trường đại học có quan hệ hợp tác với hầu hết các tổ chức khoa học công nghệ hàng đầu trên thế giới. Hàng năm có khoảng vài ngàn đề tài nghiên cứu khoa học các cấp được triển khai từ các trường Đại học tạo ra nhiều công nghệ, kỹ thuật mới rất cần cho thực tế sản xuất và đời sống.
Đây thực sự là một nguồn lực quý có tiềm năng to lớn mà chúng ta cần phát huy, khai thác để đóng góp tích cực cho hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
Nhiều năm qua, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã rất nỗ lực cố gắng đổi mới cơ chế, ban hành các luật về khoa học công nghệ để phát huy các nguồn lực trên từ trường đại học, tuy nhiên những đóng góp từ khu vực này cho sự phát triển kinh tế đất nước vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh, nhiều công nghệ, sản phẩm của đề tài nghiên cứu chưa được chuyển giao hay thương mại hóa để tạo ra giá trị kinh tế cho xã hội.
Khi mô hình tự chủ đại học ra đời, cùng với tinh thần quốc gia khởi nghiệp đã cho phép hình thành các doanh nghiệp trong trường đại học.
"Thực tế hiện nay cho thấy mô hình doanh nghiệp khởi nghiệp (start-up) đã được quan tâm nhiều, tuy nhiên mô hình doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ (spin off) thì chưa được quan tâm đúng mức, chưa thực sự có những cơ chế để khuyến khích thúc đẩy mô hình này phát triển ở các trường đại học" GS.TS Nguyễn Thị Lan nêu một thực tế.
"Mô hình này tạo cơ chế thuận lợi để các nhà khoa học tự khởi nghiệp bằng chính các công nghệ của mình, và có thể thu hút các đối tác ngoài xã hội cùng tham gia nghiên cứu, đổi mới công nghệ và thương mại hóa sản phẩm công nghệ một cách minh bạch, hiệu quả để tạo ra giá trị gia tăng cao nhất phục vụ xã hội" GS.TS Nguyễn Thị Lan nói.
Để khai thác và phát huy tiềm năng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo to lớn của trường đại học, Viện nghiên cứu, để mô hình doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ (spin-off) của trường đại học thực sự hiệu quả, GS.TS Nguyễn Thị Lan kiến nghị cần rà soát, hoàn thiện các văn bản dưới luật của Luật giáo dục đại học sửa đổi, Luật Khoa học và công nghệ; và một số luật liên quan khác.
Đưa ra hướng dẫn hình thành, vận hành doanh nghiệp Khởi nguồn công nghệ (spin off) trong trường đại học; nhất là các chính sách thúc đẩy thị trường khoa học công nghệ, thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu, phát triển các quỹ đổi mới sáng tạo, quỹ hỗ trợ rủi do.
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung chiến lược khoa học công nghệ quốc gia, quy hoạch, dự báo nhu cầu đổi mới công nghệ gắn với quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm khoa học công nghệ quốc gia đủ mạnh để giải quyết các bài toán về công nghệ phù hợp chiến lược mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Có chính sách thực sự đột phá và thiết thực để huy động đội ngũ trí thức khoa học đông đảo từ các trường đại học, viện nghiên cứu tích cực tham gia vào hoạt động đổi mới sáng tạo quốc gia.
Ngoài ra cần rà soát đánh giá lại và bổ sung mới các chính sách để thu hút đội ngũ các nhà khoa học quốc tế và Việt Kiều đóng góp cho hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam.